Bối cảnh thế giới và trong nước cuối thập niên 1930 đầu thập niên 1940 của thế kỷ XX có những chuyển biến mau lẹ. Thế giới đứng trước hiểm họa của chủ nghĩa phát xít; nguy cơ bùng nổ cuộc chiến tranh thế giới; sự đàn áp, bóc lột của thực dân Pháp đối với nhân dân ta lên đến đỉnh điểm, mâu thuẫn giữa các tầng lớp nhân dân ta với thực dân Pháp ngày càng gay gắt. Trong bối cảnh đó, Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 11 năm 1939,tại Hóc Môn - Bà Điểm, Sài Gòn đề ra chủ trương “Cách mạng giải phóng dân tộc” bằng hình thức “bạo động” để giành chính quyền. Đầu năm 1940, Ban Thường vụ Xứ ủy Nam Kỳ do đồng chí Võ Văn Tần làm Bí thư đã vạch ra đề cương chuẩn bị bạo động, đưa ra các hoạt động tự phát vào phong trào chống thực dân Pháp và tay sai dưới sự lãnh đạo của Đảng, chuẩn bị vũ trang khởi nghĩa. Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1940 nhận định: Điều kiện ở Nam Kỳ và cả nước chưa chín muồi, vì vậy đề nghị Xứ ủy Nam Kỳ chưa nên phát động khởi nghĩa, sau đó Trung ương phái đồng chí Phan Đăng Lưu quay trở về để hoãn cuộc khởi nghĩa. Sau khi về đến Sài Gòn, đồng chí Phan Đăng Lưu bị địch bắt. Trong thời điểm đó Xứ ủy Nam Kỳ đã phát lệnh khởi nghĩa khắp nơi không thể thu hồi.
Đêm 22 rạng sáng ngày 23/11/1940, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra khí thế mạnh mẽ và quy mô lớn chưa từng có. Khắp vùng nông thôn Nam bộ rung chuyển, cụ thể: Từ Biên Hòa đến Cà Mau, 18 tỉnh nổi dậy cướp chính quyền, ở Mỹ Tho, 54 trong số 56 xã được giải phóng. Tại Hóc Môn (Gia Định) cách Sài Gòn 20km, dưới sự chỉ huy của đồng chí Mười Đen - Xứ ủy viên, du kích vây đồn, chặn đánh địch tiếp viện ở Cầu Bông, giết tên ác ôn chánh xứ tỉnh Tây Ninh và một số lính, thu 15 súng rồi kéo lên Truông Mít (Tây Ninh). Ở Cần Giuộc, Bến Lức, Long An đội du kích của đồng chí Nguyễn Thị Bảy đã làm cho bọn địch kinh sợ phải gọi chị là "Bà Chúa Đỏ". Ở Vũng Liêm (Vĩnh Long), đội du kích và quần chúng chiếm đồn địch trong 3 ngày, làm chủ quận lị. Ở Mỹ Tho, hàng ngàn du kích do Bí thư tỉnh ủy chỉ huy bức rút 2 đồn, phá hoại gần 10 km đường bộ, 14 cầu, ngăn 6 con sông, bóc đường sắt Sài Gòn - Mỹ Tho. Ngày 14 tháng 12 năm 1940, địch phải dùng thủy, lục, không quân tiến công Mỹ Tho nhưng mãi đến ngày 14 tháng 1 năm 1941 chúng mới chiếm lại được và đẩy du kích vào Đồng Tháp Mười…
Cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ bị dập tắt, thực dân Pháp đã thẳng tay đàn áp, tiến hành khủng bố trắng, dìm cuộc khởi nghĩa vào trong biển máu. Hệ thống tổ chức của Đảng từ cấp Xứ đến cơ sở bị phá vỡ gần hết. Bí thư Xứ ủy bị địch bắt, 4 liên tỉnh ủy, 14 tỉnh ủy, ban cán sự bị xóa hoặc tê liệt. Toàn Nam Kỳ bị mất đến 90% cán bộ cách mạng, tạm thời mất liên lạc với Trung ương. Hai tháng sau khi phần lớn Xứ ủy viên bị bắt, các Xứ ủy viên còn lại tái lập Xứ ủy.
Khởi nghĩa Nam Kỳ nổ ra và thất bại song không làm mất đi ý nghĩa lớn lao của nó. Cuộc khởi nghĩa đã góp phần làm sáng tỏ tính chính xác và đúng đắn của Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939, tạm gác khẩu hiệu ruộng đất, tích cực chuẩn bị lực lượng chuyển sang đấu tranh vũ trang giành lấy chính quyền cách mạng về tay nhân dân. Đồng thời, khởi nghĩa Nam Kỳ đã chứng minh rằng muốn lật đổ ách thống trị của thực dân đế quốc để giành độc lập tự do cho dân tộc, nhất thiết phải bằng khởi nghĩa cách mạng, bạo lực vũ trang của toàn dân, chứ không chỉ bằng đấu tranh chính trị đơn thuần được.
Ngày 28-1-1941, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc về nước, trực tiếp chỉ đạo phong trào cách mạng. Người triệu tập Hội nghị Trung ương 8 tại Pắc Bó (Cao Bằng). Hội nghị đã kết luận sự chỉ đạo chuyển hướng chiến lược của Hội nghị Trung ương Đảng tháng 11 năm 1939 là hoàn toàn đúng đắn. Đồng thời khi tổng kết kinh nghiệm của các cuộc khởi nghĩa Bắc Sơn, Đô Lương và Nam Kỳ, Hội nghị cũng cho rằng: “Mặc dù sự đàn áp của giặc Pháp rất dữ dội mà dân ta vẫn không lùi. Những cuộc khởi nghĩa lại gây một ảnh hưởng rộng lớn toàn quốc. Đó là những tiếng súng báo hiệu cho cuộc khởi nghĩa toàn quốc, là bước đấu tranh bằng võ lực của các dân tộc ở một nước Đông Dương”4. Trong đó, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ mang tính chất của một cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, tính chất nhân dân rộng rãi, sâu sắc. Các tầng lớp, giai cấp, dân tộc, tôn giáo trong xã hội đều tham gia khởi nghĩa trên quy mô rộng lớn khắp Nam Kỳ. Từ thực tiễn của cuộc khởi nghĩa ở Nam Kỳ, Ðảng ta đúc rút nhiều kinh nghiệm, bài học quý báu vận dụng trong công tác lãnh đạo, chỉ đạo, dẫn đến thành công của Cách mạng tháng Tám năm 1945. Từ phân tích sự thất bại của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ, tại Hội nghị Trung ương Đảng họp tháng 5 năm 1941, Ban Chấp hành Trung ương chủ trương phải phát huy tính tích cực, chủ động cách mạng, phải luôn luôn chuẩn bị một lực lượng sẵn sàng, để khi thời cơ đến, có thể lãnh đạo một cuộc khởi nghĩa từng phần trong từng địa phương để mở đường cho cuộc tổng khởi nghĩa toàn quốc.
Bên cạnh đó, khởi nghĩa Nam kỳ cũng cho thấy một thực tiễn là muốn khởi nghĩa thắng lợi phải xây dựng lực lượng một cách toàn diện, cả lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang, trong đó, lực lượng chính trị là nòng cốt và lực lượng vũ trang đóng vai trò xung kích. Chính vì thế, sau khi tổng kết kinh nghiệm, Đảng ta cũng đã có những bước đi sáng suốt nhằm xây dựng một lực lượng cách mạng hùng hậu, mạnh mẽ, sẵn sàng chờ đón thời cơ.
Như vậy, cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ tuy bộc lộ những hạn chế như trong lựa chọn thời cơ, xây dựng lực lượng… song cũng chính những vấn đề này đã trở thành những bài học kinh nghiệm của Đảng ta trong lãnh đạo cách mạng. Cuộc khởi nghĩa trở thành tiền đề thực tiễn quan trọng để Đảng đề ra chủ trương đường lối đúng đắn dẫn dắt cuộc vận động cách mạng của nhân dân đi đến thắng lợi thông qua cuộc Tổng khởi nghĩa tháng 8-1945.
Có thể khẳng định, khởi nghĩa Nam Kỳ là cuộc nổi dậy kế tục và phát huy truyền thống yêu nước của dân tộc ta, chiến đấu dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác – Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là một trang sử oanh liệt và đau thương của nhân dân Nam bộ, những người đã đứng lên chấp nhận hi sinh quyết giành lại độc lập cho dân tộc dưới ngọn cờ của những người cộng sản. Khởi nghĩa Nam Kỳ là biểu trưng cho tầm vóc to lớn và uy tín sâu rộng của Đảng đối với nhân dân Nam Kỳ trong suốt quá trình vận động cách mạng, từ cấp Xứ, đến các tỉnh ủy, các chi bộ và từng đảng viên, thể hiện được tinh thần cách mạng tiến công của Đảng, tinh thần quật khởi của dân tộc ta. Tinh thần chiến đấu anh dũng của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ sống mãi trong lịch sử đấu tranh cách mạng của dân tộc ta.
Cuộc khởi nghĩa tuy thất bại, nhưng đã góp phần xứng phần xứng đáng vào thắng lợi chung của dân tộc: Cách mạng tháng Tám năm 1945, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Tầm vóc và ý nghĩa lịch sử của cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ đã đi cùng dân tộc trong suốt hai cuộc trường chinh chống Pháp và chống Mỹ, đặc biệt là nhân dân Nam bộ “Thành đồng Tổ quốc” và sẽ tiếp tục đồng hành cùng đất nước ta trên con đường xây dựng một nước Việt Nam xã hội chủ nghĩa, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.